nguyenlieuduoc
Tài xế Đồng
Râu ngô có tên khoa học là Stigma maydis, là một thảo dược quan trọng được sử dụng trong các bài thuốc truyền thống của người Trung Quốc. Trong râu ngô có các chất xitosterol, stigmas – terol, tinh dầu, chất dầu, saponin, glucozit đắng, vitamin K, vitamin C, chất nhầy và một số chất khác. Các ứng dụng chống oxy hóa và chăm sóc sức khỏe tiềm năng của cao râu ngô như là thuốc lợi tiểu, trong việc giảm đường huyết, chống trầm cảm và giảm mệt mỏi.
Các ứng dụng khác của râu ngô bao gồm các loại trà và chất bổ sung để điều trị các vấn đề liên quan đến tiết niệu. Việc sử dụng tiềm năng liên quan rất nhiều đến tính chất và cơ chế hoạt động của các thành phần hoạt tính sinh học của nhà máy như flavonoid và terpenoid. Do đó, tổng quan này sẽ bao gồm các kết quả nghiên cứu về các ứng dụng tiềm năng của râu ngô trong chăm sóc sức khỏe bao gồm các hoạt động hóa dược và dược lý của nó. Ngoài ra, mô tả thực vật và nghiên cứu độc tính của nó cũng được bao gồm.
Râu ngô làm giảm một loạt các tình trạng đặc trưng bởi viêm tiết niệu. Nó đặc biệt hữu ích trong việc điều trị viêm do nhiễm vi khuẩn. Một polysacarit phức tạp trong tơ kích hoạt các đại thực bào (bạch cầu) để nhấn chìm và hòa tan các vi sinh vật truyền nhiễm.
Chiết xuất râu ngô có thể được sử dụng trong điều kiện axit uric cao như bệnh gút và một số loại viêm khớp. Nó giúp giảm tình trạng sưng đau. Mặc dù là thuốc lợi tiểu, chiết xuất râu ngô cũng có thể có lợi cho việc đi tiểu thường xuyên bằng cách làm dịu bàng quang. Nghiên cứu của Trung Quốc chỉ ra rằng râu ngô làm giảm huyết áp và giảm thời gian đông máu.
Các bài thuốc có chứa râu ngô
Râu ngô là một vị thuốc dùng trong nhân dân từ lâu. Hiện nay khoa học đã chứng minh kinh nghiệm cổ truyền đó và được áp dụng trong các bệnh sau đây:
– Chữa viêm túi mật, sỏi mật, mỡ máu, huyết áp cao và đái tháo đường: sử dụng râu ngô kết hợp với vitamin K để làm thuốc chữa viêm túi mật, sỏi mật, huyết áp cao, làm thuốc cầm máu.
– Chống dị ứng, chữa viêm thận, viêm gan và viêm mũi họng: râu ngô dùng tươi hoặc sấy khô cắt nhỏ đun sôi để nguội lấy nước uống. Uống trước bữa ăn, mỗi lần uống 1 bát con nước.
– Dùng làm thuốc thông tiểu tiện, dùng trong các bệnh về tim, tê thấp: dùng dưới hình thức thuốc pha hoặc nấu thành cao dược liệu lỏng. Nếu nấu thành cao lỏng, đóng thành lọ 20g. Ngày uống 2 – 3 lần, mỗi lần 30 – 40 giọt trước bữa ăn.
Các ứng dụng khác của râu ngô bao gồm các loại trà và chất bổ sung để điều trị các vấn đề liên quan đến tiết niệu. Việc sử dụng tiềm năng liên quan rất nhiều đến tính chất và cơ chế hoạt động của các thành phần hoạt tính sinh học của nhà máy như flavonoid và terpenoid. Do đó, tổng quan này sẽ bao gồm các kết quả nghiên cứu về các ứng dụng tiềm năng của râu ngô trong chăm sóc sức khỏe bao gồm các hoạt động hóa dược và dược lý của nó. Ngoài ra, mô tả thực vật và nghiên cứu độc tính của nó cũng được bao gồm.
Râu ngô làm giảm một loạt các tình trạng đặc trưng bởi viêm tiết niệu. Nó đặc biệt hữu ích trong việc điều trị viêm do nhiễm vi khuẩn. Một polysacarit phức tạp trong tơ kích hoạt các đại thực bào (bạch cầu) để nhấn chìm và hòa tan các vi sinh vật truyền nhiễm.
Chiết xuất râu ngô có thể được sử dụng trong điều kiện axit uric cao như bệnh gút và một số loại viêm khớp. Nó giúp giảm tình trạng sưng đau. Mặc dù là thuốc lợi tiểu, chiết xuất râu ngô cũng có thể có lợi cho việc đi tiểu thường xuyên bằng cách làm dịu bàng quang. Nghiên cứu của Trung Quốc chỉ ra rằng râu ngô làm giảm huyết áp và giảm thời gian đông máu.
Các bài thuốc có chứa râu ngô
Râu ngô là một vị thuốc dùng trong nhân dân từ lâu. Hiện nay khoa học đã chứng minh kinh nghiệm cổ truyền đó và được áp dụng trong các bệnh sau đây:
– Chữa viêm túi mật, sỏi mật, mỡ máu, huyết áp cao và đái tháo đường: sử dụng râu ngô kết hợp với vitamin K để làm thuốc chữa viêm túi mật, sỏi mật, huyết áp cao, làm thuốc cầm máu.
– Chống dị ứng, chữa viêm thận, viêm gan và viêm mũi họng: râu ngô dùng tươi hoặc sấy khô cắt nhỏ đun sôi để nguội lấy nước uống. Uống trước bữa ăn, mỗi lần uống 1 bát con nước.
– Dùng làm thuốc thông tiểu tiện, dùng trong các bệnh về tim, tê thấp: dùng dưới hình thức thuốc pha hoặc nấu thành cao dược liệu lỏng. Nếu nấu thành cao lỏng, đóng thành lọ 20g. Ngày uống 2 – 3 lần, mỗi lần 30 – 40 giọt trước bữa ăn.