Hỏi:
Hiện nay tôi đã kết hôn, chồng tôi là người Nhật Bản. Vậy con tôi khi đăng ký khai sinh có được đặt tên và họ theo bố hay không?
Trả lời:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch, thì khi đăng ký khai sinh, họ, chữ đệm, tên của trẻ em được xác định theo thỏa thuận của cha, mẹ theo quy định của pháp luật dân sự và được thể hiện trong Tờ khai đăng ký khai sinh; trường hợp cha, mẹ không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được, thì xác định theo tập quán. Bộ luật dân sự hiện hành chưa có quy định cụ thể về việc đặt tên, chữ đệm. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật dân sự đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24/11/2015, có hiệu lực từ ngày 01/01/2017 thì cá nhân có quyền có họ, tên (bao gồm cả chữ đệm, nếu có); họ của cá nhân được xác định là họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ; nếu không có thỏa thuận thì họ của con được xác định theo tập quán; trường hợp chưa xác định được cha đẻ thì họ của con được xác định theo họ của mẹ đẻ. Tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ; việc đặt tên bị hạn chế trong trường hợp xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự Việt Nam (Điều 26). Đối với trường hợp của chị có quốc tịch Việt Nam và chồng chị có quốc tịch Nhật Bản là trường hợp đăng ký khai sinh có yếu tố nước ngoài, theo quy định pháp luật hộ tịch, nếu anh, chị lựa chọn quốc tịch Việt Nam cho con, thì họ của con anh, chị có thể xác định theo họ của cha, nhưng tên gọi (bao gồm cả chữ đệm) phải là tên tiếng Việt.
Hiện nay tôi đã kết hôn, chồng tôi là người Nhật Bản. Vậy con tôi khi đăng ký khai sinh có được đặt tên và họ theo bố hay không?
Trả lời:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch, thì khi đăng ký khai sinh, họ, chữ đệm, tên của trẻ em được xác định theo thỏa thuận của cha, mẹ theo quy định của pháp luật dân sự và được thể hiện trong Tờ khai đăng ký khai sinh; trường hợp cha, mẹ không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được, thì xác định theo tập quán. Bộ luật dân sự hiện hành chưa có quy định cụ thể về việc đặt tên, chữ đệm. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật dân sự đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24/11/2015, có hiệu lực từ ngày 01/01/2017 thì cá nhân có quyền có họ, tên (bao gồm cả chữ đệm, nếu có); họ của cá nhân được xác định là họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ; nếu không có thỏa thuận thì họ của con được xác định theo tập quán; trường hợp chưa xác định được cha đẻ thì họ của con được xác định theo họ của mẹ đẻ. Tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ; việc đặt tên bị hạn chế trong trường hợp xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự Việt Nam (Điều 26). Đối với trường hợp của chị có quốc tịch Việt Nam và chồng chị có quốc tịch Nhật Bản là trường hợp đăng ký khai sinh có yếu tố nước ngoài, theo quy định pháp luật hộ tịch, nếu anh, chị lựa chọn quốc tịch Việt Nam cho con, thì họ của con anh, chị có thể xác định theo họ của cha, nhưng tên gọi (bao gồm cả chữ đệm) phải là tên tiếng Việt.